top of page

NẾU BẠN THÍCH ENZYME THÌ ĐÂY LÀ NUTRICLE DÀNH CHO BẠN

Trong nhiều năm qua, chất xơ từng được xem như là một chất dinh dưỡng “xấu” mà chúng ta cần loại bỏ. Nhưng trong những năm gần đây, chất xơ đang trở nên phổ biến khi chúng ta khẳng định tầm quan trọng của chúng đối với ruột già. Chất xơ (NSP - non-starch polysaccharides) là nguồn dinh dưỡng mà động vật có vú không thể tiêu hóa được. Hiện nay, các nhà dinh dưỡng đang làm tăng mức NDF lên đến 12% trong khẩu phần ăn của lợn con và 18% trong khẩu phần ăn của lợn nái đang cho con bú. Qua đó làm tăng các yếu tố kháng dinh dưỡng đi kèm với các thành phần chất xơ.


Các chất xơ hòa tan có xu hướng liên kết với nước để tạo thành gel, được gọi là “hiệu ứng tạo gel”. Làm tăng độ nhớt của chất tiêu hóa và làm chậm quá trình vận chuyển. 


Các chất xơ không hòa tan được cấu tạo từ tế bào thực vật, vừa liên kết với protein (chủ yếu có trong ngô, sắn và khô dầu đậu nành) vừa ngăn cản các enzyme nội sinh tiêu hóa glucid và lipid bên trong tế bào “hiệu ứng lồng”. Đó là sự hao tổn chất dinh dưỡng đáng kể.



Bằng cách phá vỡ các phân tử NSP to thành các mảnh nhỏ hơn, chúng tôi giảm độ nhớt chất tiêu hóa và cho phép các enzyme nội sinh tiếp cận các chất tiêu hóa bên trong tế bào thực vật. Hai cơ chế này góp phần cải thiện đáng kể hiệu quả tiêu hóa.

Nhưng phá vỡ NSP cũng có tác dụng tiền sinh học. Các enzyme NSP phá vỡ các chất xơ thành mảnh oligosacarit nhỏ hơn. Những oligosacarit này có thể được lên men bởi vi khuẩn đường ruột, trở thành một phần lớn của hệ vi sinh vật và hỗ trợ sản sinh ra nhiều axit béo chuỗi ngắn, có thể hoạt động như một nguồn năng lượng trực tiếp cho nhung mao ruột, giúp tiêu hóa và tái hấp thu nước nói chung tốt hơn.


Tuy nhiên, vật nuôi không có khả năng tự tiêu hóa các NSP này. Chính vì thế, các enzyme này cần được bổ sung vào khẩu phần ăn của vật nuôi mà chúng ta thường được biết đến với cái tên enzyme NSP hoặc NSPase. Bao gồm một số enzyme như xylanase, glucanase, pectinase có tác dụng tốt trong việc cắt các loại khác nhau của NSP. Chất nền mà các enzyme sẽ phải xử lý phụ thuộc nhiều vào từng thành phần. Ví dụ, arabinoxylans đặc biệt chiếm ưu thế trong lúa mì trong khi pectin và glucan chiếm ưu thế trong bột đậu nành.


Để minh họa cho tính hiệu quả của các enzyme NSP, các nhà máy sản xuất đã cung cấp các chứng nhận để đảm bảo hoạt độ của từng enzyme. Nhưng mỗi nhà sản xuất có một phương pháp đo hoạt độ enzyme khác nhau với đơn vị hoạt độ riêng. Trên lý thuyết, điều này rất phức tạp để so sánh các hoạt độ khi sử dụng các đơn bị khác nhau.


Cách tiếp cận tốt nhất là so sánh các hoạt độ của một số enzyme trong cùng một phương pháp. Dưới đây là so sánh hoạt động của xylanase và glucanase đến từ một nhà phân phối Châu Âu.


Xylanase, Glucanase là hai loại enzyme thực sự phổ biến được sử dụng trong dinh dưỡng động vật. Xylanase là loại enzyme rẻ được sản xuất với số lượng lớn cho ngành dệt, Glucanase thì hạn chế hơn vì sản xuất chi phí cao hơn. Đới với những ai đang tìm kiếm các mở rộng hoạt tính của hỗn hợp, pectinase là một enzyme tìm năng, đặc biệt đối với các nguyên liệu giàu pectin như khô dầu đậu nành


Tôi muốn nhấn mạnh một điểm cần lưu ý trên biểu đồ, nghiên cứu này khẳng định rằng hai sản phẩm chứa pectinase, glucanase và xylanase có hoạt tính glucanase vượt trội. Sự gia tăng hoạt tính này không đến từ sự hiện diện của pectinase như đã đề cập trên biểu đồ, mà hoạt tính pectinase nên được đo bằng không gian 3 chiều bằng một phương pháp khác. Nhưng hóa ra, điều đó lại được các nhà sản xuất kết hợp ba loại enzyme lại, và cũng là các nhà sản xuất chỉ định glucanase có hoạt tính cao nhất. Đó là vấn đề về các chủng nấm hoặc quá trình sản xuất.


Ngược lại, dường như tác dụng hỗ trợ giữa các enzyme, một số dữ liệu cho thất rằng, glucanase tạo ra một số khoảng trống để xylanase tiếp cận cơ chất.

Để định lượng năng lượng và axit amin, các enzyme NSP sẽ có thể khôi phục từ khẩu phần ăn, các nhà sản xuất cung cấp một ma trận để các chuyên gia dinh dưỡng kết hợp trong phần mềm nhằm tối ưu hóa công thức của họ. Nhưng sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất đã tạo nên lạm phát trên các ma trận với các con số ngày càng cao. Hơn thế nữa, các giá trị nền này nên được điều chỉnh theo từng khẩu phần ăn, để xem xét bản chất và chất lượng của các thành phần cơ chất sử dụng. Để có được sự tự tin, các chuyên gia dinh dưỡng nên xác nhận các ma trận này trước trên thực địa bằng các thử nghiệm trên động vật. Nếu nhóm thử nghiệm có kết quả tốt hơn nhóm đối chứng, điều đó có nghĩa là ma trận đang đánh giá thấp sự đóng góp của các enzyme. Và nếu ngược lại,  hiệu suất của vật nuôi nằm dưới đối chứng âm, ma trận có thể quá khả quan. 


Để kết luận, điều quan trọng cần nhớ là enzyme NSP là sản phẩm của quá trình lên men với giá trị biến động. Để đảm bảo nguồn cung cấp ổn định, phải chọn nhà cung cấp có quy trình sản xuất lập lại và hồ sơ đăng kí cụ thể.


Như tôi đã đề cập ở phần mở đầu, chất xơ có tác dụng kháng dinh dưỡng như “hiệu ứng tạo gel” và “hiệu ứng lồng”. Trong nhiều năm, các nhà dinh dưỡng chỉ nhìn thấy những tác động kháng dinh dưỡng nên muốn loại bỏ chất xơ khỏi khẩu phần ăn. Ngày nay, các nhà khoa học đã chứng minh tầm quan trọng của chất xơ trong quá trình tiêu hóa, vừa đảm bảo quá trình vận chuyển thích hợp vừa thúc đẩy quá trình lên men ở đường ruột. Để chắc chắn rằng không có sự hiểu lầm nào về tầm quan trọng của chất xơ, điều cần nhấn mạnh là tác dụng hữu ích của chất xơ đối với sức khỏe đường ruột vượt qua các yếu tố kháng dinh dưỡng, và sử dụng NSPase giải quyết một phần (nhưng không hoàn toàn) các yếu tố này. Một giải pháp khác hữu ích khác từ nguồn NDF mà không tạo ra hiệu ứng “lồng” và “tạo gel” là sử dụng lignocellulose đã xử lý. Đây là nguồn 98% NDF, không có chất xơ hòa tan và mỗi tế bào đã được mở ra bằng một quy trình vật lý.


Enzym NSP và lignocellulose là những “công cụ” mạnh mẽ dành cho các chuyên gia dinh dưỡng để tăng mức độ NDF trong khẩu phần ăn của Lợn và Gia Cầm mà không phải trả tiền cho các yếu tố kháng dinh dưỡng.

Comments


bottom of page